Phần mềm độc hại là gì

From Information Security Terms
Revision as of 07:20, 15 April 2020 by 8TG1K2 admin (talk | contribs) (Created page with "=== Quảng cáo độc hại === Quảng cáo độc hại đang sử dụng quảng cáo hợp pháp hoặc mạng quảng cáo để phân phối phần mềm độc hại....")
Jump to navigation Jump to search
Other languages:
Bahasa Indonesia • ‎Bahasa Melayu • ‎Deutsch • ‎English • ‎Tiếng Việt • ‎Türkçe • ‎español • ‎français • ‎italiano • ‎português • ‎русский • ‎العربية • ‎فارسی • ‎हिन्दी • ‎中文 • ‎日本語 • ‎한국어

Phần mềm độc hại là gì

Phần mềm độc hại (malware) - là tên gọi chung cho một số loại phần mềm, được thiết kế để truy cập trái phép vào các thiết bị máy tính (máy tính, điện thoại thông minh, v.v.) hoặc mạng và/hoặc cố ý làm hại người dùng các thiết bị này. Do đó, phần mềm được định nghĩa là phần mềm độc hại, tùy thuộc vào mục đích sử dụng của nó, thay vì dựa trên phương pháp hoặc công nghệ cụ thể mà phần mềm này dựa trên.

Mục đích sử dụng

Các chương trình phần mềm độc hại đầu tiên được tạo ra dưới dạng thử nghiệm hoặc cho vui. Ngày nay, phần mềm độc hại thường được sử dụng để đánh cắp thông tin - tài chính, cá nhân hoặc liên quan đến kinh doanh. Phần mềm độc hại có thể được sử dụng cả cho các cuộc tấn công vào các tổ chức (xâm nhập vào mạng cục bộ) và thậm chí trên một quốc gia, cũng như để đánh cắp thông tin cụ thể về một cá nhân (đánh cắp dữ liệu ngân hàng, truy cập chi tiết vào các dịch vụ khác nhau, v.v.).

Hầu hết các loại virus và sâu hiện có được thiết kế để giành quyền kiểm soát thiết bị bị tấn công (máy tính, điện thoại thông minh, v.v.). Sau này, thiết bị được giám sát có thể được sử dụng để gửi thư rác, lưu trữ thông tin bất hợp pháp (ví dụ: nội dung khiêu dâm trẻ em) hoặc để thực hiện các cuộc tấn công của các loại khác.

Phân loại phần mềm độc hại

Một số sản phẩm phần mềm độc hại có thể thuộc một số loại cùng một lúc; những chương trình như vậy thường có đặc điểm của Trojans và sâu, và đôi khi cả virus. Thông thường, một chương trình độc hại được gửi đến người dùng cuối dưới dạng ngựa thành Troia, nhưng sau khi khởi chạy, nó sẽ tự sửa trên thiết bị của người dùng và lây nhiễm các tệp thực thi của các chương trình khác, tức là hoạt động như virus; nó cũng có thể tấn công các thiết bị khác qua mạng, tức là hoạt động như một con sâu.

Virus

Virus máy tính là một chương trình ẩn trong phần mềm khác, thường hữu ích hoặc vô hại. Virus có thể tự tạo các bản sao và chèn chúng vào các tệp thực thi của các chương trình khác. Một vi-rút thường thực hiện một số hành động độc hại - ví dụ: đánh cắp hoặc phá hủy dữ liệu.

Một con sâu máy tính

Một con sâu máy tính (mạng) là phần mềm tự sao chép sang các máy tính khác thông qua mạng máy tính để tự phân phối. Thông thường, các lỗ hổng trong hệ điều hành hoặc cài đặt mạng được sử dụng cho việc này.

Phần mềm gián điệp (Spyware)

Phần mềm gián điệp là phần mềm có mục đích đánh cắp thông tin cá nhân từ hệ thống máy tính cho bên thứ ba. Phần mềm gián điệp thu thập thông tin và gửi cho kẻ tấn công.

Ngựa thành trojan

Một con ngựa thành Troia (hay đơn giản là Trojan Trojan Trojan) là một chương trình độc hại tự ngụy trang thành một chương trình hữu ích thông thường hoặc một ứng dụng để thuyết phục nạn nhân cài đặt nó. Một con ngựa thành Troia thường mang một chức năng phá hoại ẩn được kích hoạt khi ứng dụng chứa đầy trojan khởi động. Thuật ngữ này bắt nguồn từ một câu chuyện Hy Lạp cổ đại về một con ngựa thành Troia được sử dụng để tình cờ xâm chiếm thành phố Troy. Không giống như virus máy tính và sâu máy tính, ngựa Trojan thường không cố gắng tự nhúng vào các tệp khác hoặc tự lây lan.

Bom logic

Bom logic là một chương trình độc hại sử dụng kích hoạt để kích hoạt mã độc. Một quả bom logic không hoạt động cho đến khi sự kiện kích hoạt này xảy ra. Sau khi ra mắt, một quả bom logic sẽ tiêm mã độc gây hại cho máy tính. Các chuyên gia an ninh mạng gần đây đã phát hiện ra bom logic tấn công và phá hủy các thành phần thiết bị trên máy trạm hoặc máy chủ, bao gồm quạt làm mát, ổ cứng và nguồn điện. Bom logic làm quá tải các thiết bị này cho đến khi chúng quá nóng hoặc hỏng.

Ransomware

Trình chặn màn hình là một chương trình giả cảnh sát khóa màn hình trên thiết bị và thông báo cho người dùng rằng họ bị buộc tội về việc thu thập nội dung bất hợp pháp, cố gắng dọa nạn nhân và bắt họ trả tiền phạt.

Rootkits

Rootkit là một chương trình độc hại che giấu sự hiện diện của nó với sự trợ giúp của một sửa đổi cấp thấp của hệ thống bị nhiễm. Rootkit có thể ngăn sự xuất hiện của quy trình thực thi của họ trong danh sách các quy trình hệ thống hoặc chặn đọc tệp của họ.

Sân sau

Cửa hậu là một chương trình độc hại cung cấp quyền truy cập vào thiết bị bị nhiễm bằng cách bỏ qua các quy trình xác thực thông thường, thường thông qua kết nối mạng. Sau khi một hệ thống (máy tính hoặc mạng con) bị hack, một cửa hậu có thể được cài đặt để cung cấp quyền truy cập vào hệ thống bị tấn công trong tương lai, vô hình cho người dùng của nó.

Adware

Phần mềm quảng cáo là một loại phần mềm độc hại chuyển hướng trình duyệt của bạn đến một trang web quảng cáo mà không có sự đồng ý của bạn. Thông thường các trang này cố gắng tải xuống phần mềm độc hại khác. Như các chuyên gia bảo mật mạng cho biết, phần mềm quảng cáo thường được tìm thấy trong cái gọi là các chương trình miễn phí, chẳng hạn như trò chơi hoặc tiện ích mở rộng trình duyệt.

Cryptojacking

Cryptojacking là phần mềm độc hại sử dụng sức mạnh của thiết bị của bạn (ví dụ: máy tính) để khai thác tiền điện tử mà bạn không biết. Phần mềm khai thác như vậy có thể chạy trong nền trên hệ điều hành của bạn hoặc thậm chí như JavaScript trong cửa sổ trình duyệt.

Quảng cáo độc hại

Quảng cáo độc hại đang sử dụng quảng cáo hợp pháp hoặc mạng quảng cáo để phân phối phần mềm độc hại. Ví dụ: tội phạm mạng có thể trả tiền cho việc đặt quảng cáo trên một số trang web. Khi người dùng nhấp vào quảng cáo này, mã trong quảng cáo sẽ chuyển hướng người dùng đến một trang web độc hại hoặc cài đặt phần mềm độc hại trên máy tính nạn nhân. Trong một số trường hợp, phần mềm độc hại được nhúng trong các quảng cáo như vậy có thể chạy tự động mà không cần bất kỳ hành động nào của người dùng - phương pháp này được gọi là "khởi động từ đĩa".

Methods of Infection

Security Gaps in Software

Malicious software may use security flaws (vulnerabilities) in the operating system, individual applications, or application extensions (plug-ins). A common method of infection is to exploit the buffer overflow vulnerability.

Overly privileged users and overly privileged code

In computer systems, different users and programs have different privileges as to how they can influence the system. In poorly designed systems, users and programs can be given too high privileges without explicit need for it, and malicious software can take advantage of this.

Insecure system settings or user errors

Insecure settings include, for example, ability to autoload from removable media (USB, CD, DVD, etc.). User errors are actions of the device user, which lead to infection. Most often, these actions include launching programs of dubious or obviously dangerous origin (cracks and keygens for paid software, opening email attachments, etc.) without checking them first.